Theo văn bản pháp lý của Liên hợp quốc: mặc dù là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tuyệt đối mà là một quyền tương đối, có giới hạn. Điều này được chỉ rõ tại Khoản 2, Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”; Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Thực tiễn trên thế giới, các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật. Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Ðức quy định: tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm, nhưng hoạt động của một tổ chức tôn giáo có thể bị giới hạn hay bị cấm nếu như mục đích và hoạt động của tổ chức đó vi phạm quy định của Luật hình sự hay chống lại chế độ xã hội đã được quy định trong Hiến pháp. Ở Mỹ, tuy Hiến pháp nước này không đưa ra giới hạn đối với tôn giáo, nhưng lại chỉ rõ: các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của bang, chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân, v.v. Điều này cho thấy: các quốc gia đã đặt ra giới hạn cho tự do tôn giáo, nhằm bảo đảm trật tự, lợi ích chung của xã hội và của người dân. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia không phải là một quyền tuyệt đối. Các quan điểm biện hộ cho “quyền tự do tuyệt đối về tôn giáo” không chỉ đi ngược lại hiến pháp, pháp luật các quốc gia mà còn đi ngược lại pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đảng và nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng (ảnh tư liệu)
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đều khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam: luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Điều này tiếp tục được Đảng ta khẳng định: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng”. Điều 24, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Mặc dù các văn bản pháp lý của Việt Nam hoàn toàn tương thích với Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, nhưng các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị vẫn cố tình tạo cớ, xuyên tạc, cho rằng hệ thống pháp luật Việt Nam ban hành nhằm hạn chế “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của người dân và đòi “tự do tuyệt đối về tôn giáo”.
Thực tế ở Việt Nam có không ít hoạt động tôn giáo nhuốm màu mê tín dị đoan, trái với văn hóa truyền thống, không được pháp luật cho phép, như: hoạt động của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, Pháp Luân Công, Nhất quán đạo,…Một số vụ vi phạm pháp luật bị đưa ra xét xử, phạt tù: đối tượng Rah Lan Hip (trú tại Ia Băng, Chư Prông, Gia Lai) bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai tuyên phạt 7 năm tù, vì đã tổ chức nhóm họp “Tin lành Đề ga”. Một số linh mục: Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Duy Tân,… bị hạn chế đi lại, do các linh mục này có nhiều hoạt động không phải là hoạt động tôn giáo thuần túy. Họ đã lợi dụng tòa giảng để chống chính quyền, có nhiều phát biểu đăng trên mạng xã hội xuyên tạc lịch sử Việt Nam, vi phạm Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo: “quy định các hành vi bị nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo”. Gần đây, một số linh mục tại các giáo xứ: Hà Lời (Phong Nha, Bố Trạch, Quảng Bình); Xuân Hòa (Quảng Xuân, Quảng Trạch, Quảng Bình); Dũ Thành (Kỳ Khang, Kỳ Anh, Hà Tĩnh); Hội thánh truyền giáo Phục Hưng (Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh) vi phạm chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các quy định của Bộ Y tế và địa phương về công tác phòng, chống đại dịch Covid-19. Hành động này của các vị linh mục, xét cho cùng đã “lạm quyền” tự do thể hiện tôn giáo một cách thái quá, vi phạm nguyên tắc thượng tôn pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chỉ là chiêu trò lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam.
Trên địa bàn huyện Thanh Miện, có 2 tôn giáo được phép hoạt động là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Các tôn giáo, chức sắc cơ bản thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc. Một số chức sắc phật giáo và công dân theo Công giáo được sự tín nhiệm đã tham gia ứng cử Đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026; 100% tham gia thực hiện đầy đủ quyền bầu cử của công dân. Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đều khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam: luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Do đó, mọi hoạt động của công dân theo tôn giáo nếu không đi ngược với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều được tôn trọng. Hiện nay, trước tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid – 19, các chức sắc, tín đồ cơ bản thực hiện các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh Covid-19; thực hiện giãn cách xã hội khi có Chỉ thị của UBND huyện và các cấp, không tổ chức các hoạt động sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, giảng lễ có sự tập trung đông người. Quy định này trong công tác phòng chống dịch là hợp lý, không đơn thuần chỉ hướng tới các tôn giáo mà các cơ sở thờ tự, các địa điểm tập trung đông người, có nguy cơ dẫn tới sự bùng phát của dịch bệnh đều không được phép hoạt động. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số nơi trên địa bàn công dân tổ chức trái phép, bí mật hoạt động Pháp luân công, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Một số đối tượng chống đối luận điệu rằng việc cấm hoạt động Pháp luân công là không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Công dân có quyền lựa chọn các tôn giáo mà mình mong muốn. Tuy nhiên, phải hiểu rằng, tại Việt Nam, Pháp luân công không được Nhà nước ta công nhân là tôn giáo. Pháp luân công không có giáo lý, giáo luật hoàn chỉnh mà cắt xén, vay mượn của các tôn giáo khác để hình thành. Ngoài ra, Pháp luân công lợi dụng các bài tập dưỡng sinh, khí công truyền thống của các môn phái khác để lôi kéo đông người tham gia dần dần truyền bá, tuyên truyền những tư tưởng sai lệch, trái với đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Việc Pháp luân công không được phép hoạt động tại Việt Nam là sự bảo đảm cho an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Sự thực trên là sự khẳng định mạnh mẽ nhất của Việt Nam trong bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời khẳng định: không ở đâu có quyền tự do tôn giáo tuyệt đối như đòi hỏi phi lý của một số người.
NGUYỄN THỊ THẮM- CÔNG AN HUYỆN.